Vị trí: Dài 964 mét, đi từ đường Thanh Niên đến đường Yên Phụ (chỗ giáp phố Hàng Bún). Riêng đoạn giữa phố - từ ngã tư Cửa Bắc đến ngã tư Yên Ninh - thì mới nhập vào Nhà máy Điện Yên Phụ, cho nên hiện nay phố Phó Đức Chính gồm hai đoạn cách xa nhau.
Từ trước thế kỷ XIX, đây là đất phường Yên Hoa. Tới đầu thế kỷ XIX, phường Yên Hoa chia ra một số thôn nhỏ: Yên Phụ, Yên Canh, Yên Định, Yên Ninh, Trúc Bạch v.v... Phố Phó Đức Chính tính từ phía bắc xuống gồm đất của các thôn sau: Trúc Bạch, Yên Canh (hai thôn này sau nhập lại thành thôn Trúc Yên), Yên Định và Yên Ninh, đều thuộc tổng Yên Thành, huyện Vĩnh Thuận cũ. Dấu vết các thôn này nay là các đình miếu cổ: đình Trúc Yên ở số nhà 62, đình An Trì trên đất Yên Canh cũ ở số nhà 66, đình Yên Định ở số nhà 100, đình Yên Ninh ở số nhà 150. (Chỗ tận cùng của phố này, tức số nhà 216, là đền Đức Vua thì đã sang đất thôn Thạch Khối). (Xem thêm mục Hàng Than). Đình An Trì là một di tích có ít nhiều giá trị lịch sử. Thần tích kể rằng: Uy Đô là con của vua Trần Thánh Tông và bà hoàng hậu Minh Đức. Chàng là hậu thân của Uy Linh Lang (tên gọi chung trăm người con của Lạc Long Quân). Khi quân Nguyên sang xâm lược, Uy Đô mộ nghĩa binh đi đánh giặc. Khi giặc tan, chàng được phong là Dâm Đàm đại vương. Năm ấy chàng 36 tuổi. Nhưng tới năm sau Uy Đô qua đời ở ngay nhà riêng tại xóm Bình Thọ. Nhân dân vùng này lập đền thờ chàng ở chỗ bảy cây gạo nơi chàng "hiển linh" tức nay là đình Nhật Tân; lại lập một đền nữa ở trên chính nền nhà cũ (ở xóm Bình Thọ) tức là đình An Tri ngày nay. Vì lúc này vẫn còn là thuộc phường Yên Hoa nên đình này cũng gọi là đình Yên Hoa (và như thế là bên cạnh thánh Linh Lang đời Lý được thờ chính tại đền Voi Phục Thủ Lệ, còn có thánh Linh Lang đời Trần mà nơi thờ chính là đình An Trì). Và nếu tước bỏ phần hoang đường đi thì Linh Lang này có thể là một chàng trai gốc gác ở phường Yên Hoa (tức Yên Phụ), có công đánh giặc Nguyên nên được vua Trần nhận làm con(?). Sau này, khi phường Yên Hoa đã bị chia nhỏ ra thì đình An Trì lại thuộc về thôn Yên Canh cho nên thôn Yên Phụ (mới) lập đền riêng để thờ. (Tới giữa thế kỷ XIX, đền này ở sát đê, bị lở, nên dân làng mới đem bài vị bát hương vào đặt ở chùa Trấn Quốc trong hồ Tây vì chùa này cũng thuộc đất làng Yên Phụ). Khi thực dân Pháp đặt xong ách cai trị ở Hà Nội, chúng đã xây một trường đào tạo thông ngôn (người phiên dịch) bên cạnh đình An Trì. Sau trường này giải tán nhường chỗ cho học trò tiểu học, và dân chúng quen gọi là trường Yên Phụ tuy trường này không nằm trên đất làng Yên Phụ, Thời Pháp thuộc, đây là phố Lô-cốt Bắc (rue Blockhaud Nord). Đối với lịch sử cách mạng Thủ đô, phố này có một địa điểm đáng nhớ. Đó là nhà số 19, một trụ sở bí mật của Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936-1939) mà các đồng chí Trường Chinh, Lương Khánh Thiện đã từng làm việc tại đây.
Sau Cách mạng, đã được đặt tên là phố Nguyễn Thái Học. Thời tạm chiếm, đổi ra tên hiện nay. Từ ngày giải phóng Thủ đô, vẫn đuy trì tên gọi đó.
Tiểu sử nhân vật: Phó Đức Chính (1908-1930) người làng Đa Ngưu, nay thuộc huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên, là sinh viên Cao đẳng Công chính, đã tham gia sáng lập Việt Nam quốc dân Đảng. Ông đã cùng Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu phụ trách cuộc khởi nghĩa do Việt Nam quốc dân Đảng tổ chức hồi tháng 2-1930. Ông được phân công chỉ huy việc đánh đồn Thông (ở Sơn Tây) với sự phối hợp của các lực lượng từ Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao kéo về (khi đã thành công ở những nơi này). Nhưng trong thực tế thì việc đánh chiếm ba nơi trên không thành, nên kế hoạch đánh đồn Thông cũng thất bại. Ít ngày sau, Phó Đức Chính bị giặc Pháp bắt, đưa ra hội đồng đề hình kết án tử hình.
Ngày 17-6-1930, hồi 5 giờ rưỡi sáng, ông bị đưa lên máy chém ở thị xã Yên Bái cùng với Nguyễn Thái Học và 11 liệt sĩ khác.
Nguồn: Phố và Đường Hà Nội – Nguyễn Vinh Phúc.
Dịch vụ
Sự hài lòng
Độ hấp dẫn